Trang nhất
  Xã Luận
  Đọc Báo Trong Nước
  Truyện Ngắn
  Kinh Tế
  Âm vang sử Việt
  Tin Thể Thao
  Y Học
  Tâm lý - Xã hội
  Công Nghệ
  Ẩm Thực

    Diễn Đàn Biển Đông
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lên tiếng vụ tàu Philippines bị tàu Trung Quốc phun vòi rồng
    Hình Ảnh Quê Nhà - Video Clip
Nồng ấm Tết cổ truyền dân tộc Khmer Chôl Chnăm Thmây
    Tin Thế Giới
Lệnh cấm nhập khẩu uranium của Nga 'gây bão' trên thị trường năng lượng
    Tin Việt Nam
Lãnh đạo Việt Nam gửi điện thăm hỏi Campuchia sau vụ nổ kho đạn
    Tin Cộng Đồng
Nắng nóng kỷ lục tại nhiều bang của Ấn Độ
    Tin Hoa Kỳ
Mật vụ Mỹ lên kế hoạch bảo vệ trong trường hợp ông Trump bị giam giữ
    Văn Nghệ
Huế
    Điện Ảnh
Lý Hải trở thành đạo diễn nghìn tỷ đồng
    Âm Nhạc
Danh tính nữ ca sĩ Việt may mắn gặp Rosé (Blackpink), lại còn chiêu đãi fan ảnh cam thường
    Văn Học
Bắt học sinh đi học ngày nghỉ lễ Giỗ tổ Hùng Vương, hiệu trưởng bị xem xét kỷ luật

Thông Tin Tòa Soạn

Tổng biên tập:
Tiến Sĩ
Nguyễn Hữu Hoạt
Phụ Tá Tổng Biên Tập
Tiến Sĩ
Nhật Khánh Thy Nguyễn
Tổng Thư ký:
Quách Y Lành




   Âm vang sử Việt
Những nữ tướng vĩ đại trong lịch sử Việt Nam
Dù thời xưa, phận đàn bà “ba chìm bảy nổi” nhưng nhiều người trong số họ vẫn vượt lên cái lẽ “nữ nhi thường tình” để gánh vác quốc gia đại sự.

 


 


Ngạn ngữ nước Nam ta từ ngàn xưa đã có câu: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh” để nói lên chí khí của nữ lưu đất Việt. Không chỉ tụ đủ “Công, dung, ngôn, hạnh” cần có, mà cái nghĩa “Tam tòng, tứ đức” cũng đủ đầy, lại bồi tụ thêm sự trung hậu, đảm đang trong thời hiện đại. 

 

Nước Nam một cõi đất Mê Linh, Hương hồn Nhị Trưng mãi trường vinh

 

Thật không ngoa nếu nói Trưng Trắc, Trưng Nhị là những người khởi phát cho truyền thống quật cường của phụ nữ nước ta.

 

Xuất thân là con cháu dòng họ vua Hùng đất Mê Linh, vốn con nhà lạc tướng, nhưng mẹ hai bà là bà Man Thiện cũng kiêm cả nông tang. Từ nghề trồng dâu, nuôi tằm của gia đình mà hai chị em được mẹ lấy tên là Trứng Chắc, Trứng Nhị (lép), để chúng ta quen gọi ngày nay Trưng Trắc, Trưng Nhị.

 

Lớn lên theo dòng đời giữa vận nước rối ren, bị nhà Đông Hán đô hộ, Hai Bà chẳng cam chịu ở trói mình trong chốn khuê môn, món võ siêng tập, tay kiếm siêng luyện, hai bà trở thành bậc quần thoa được người trong vùng ngưỡng mộ theo về. Cuộc hôn nhân liên minh chính trị giữa Thi Sách và Trưng Trắc sau đó được tiến hành. Nhưng rồi, đấng phu quân đất Chu Diên (thuộc Hưng Yên nay) của bà chị cả đã bị đoạt mệnh trong tay tên Thái thú Tô Định, “Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên”, hai chị em nổi dậy khởi nghĩa.

 

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng nhanh chóng được nhân dân khắp nơi hưởng ứng, hào kiệt quanh vùng theo về, trở thành một cuộc khởi nghĩa đặc biệt khi trong hàng ngũ tướng lĩnh lãnh đạo đa phần là những nữ tướng vang danh, nào Lê Chân, nọ Thiều Hoa, lại Xuân Nương…:

 

Hai Trưng vì nghĩa thương dân,

 

Giận Tô quái gở cất quân trả hờn.

 

Dấy một cơn rồng vươn hùm thét,

 

Nổi gió oai thổi hét loài gian.

 

Lạ thay đôi sức hồng nhan,

 

Sáu mươi thành lẻ đặt yên bằng tờ.

 

(Trích Thiên Nam minh giám - Gương sáng trời Nam)

 

Cuộc khởi nghĩa thành công năm Canh Tý (40). Nhưng, nền nhất thống, thái bình “ngắn chẳng tày gang”. Qua ba năm đất nước được hưởng cảnh yên ổn, dân vui thú làm ăn, nhà Đông Hán sai Mã Viện sang Nam đàn áp. “Người ấy (chỉ Mã Viện – người dẫn) đánh nhau mấy hai bà ấy ở chỗ hồ Lãng Bạc (bây giờ là hồ Tây bên thành Hà Nội); hai chị em thua, cùng lui về; đến xã Hát môn, huyện Phúc Lộc (bây giờ là Phúc Thọ, ở tỉnh Sơn Tây), bực chí, nhảy xuống cửa sông Hát giang, tự vẫn” (trích Quảng Tập viêm văn – Edmond Nordemann), việc ấy xảy ra năm Nhâm Dần (42).

 

Đất nước sau ba năm dứt nạn đô hộ phương Bắc, nền nhất thống lại bị mất. Nhưng, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng mãi được xem là một trang sử hào hùng, bi tráng của dân tộc ta trong lịch sử chống ngoại xâm, được đời sau ca ngợi, như lời cụ Phan Sào Nam trong bài Vịnh Hai Bà Trưng trên báo Tiếng dân ngày 24 tháng 2 năm 1940 tán tụng:

 

Nỡ để non sông tỏa khói mù!

 

Ra tay vùng vẫy với thằng Tô.

 

Chị em cùng quyết nung bầu huyết.

 

Nước với chồng chung rửa mối thù.

 

Sáu chục thành trì riêng Hán, Việt.

 

Ba năm đường bệ cũng Thương, Chu.

 

Năm canh thức dậy thời oanh liệt,

 

Sóng gợn hồ Tây bóng nguyệt thu.

 

Nghỉ yên non Tùng mây trắng. Nghiệp dựng Nưa sơn đất lành

 

Bà Triệu hay Triệu Trinh Nương, Triệu Thị Trinh, Triệu Ẩu đều là những tên gọi chỉ vị nữ anh hùng của dân tộc ta đầu thế kỷ III.

 

Theo dã sử, bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (226) tại vùng núi Quan Yên (núi Nưa), thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa nay. Dân gian còn kể lại rằng, từ nhỏ cô gái họ Triệu đã tỏ ra là người quyết đoán, chính trực, luôn thể hiện sự căm phẫn trước những cảnh đàn áp, bóc lột dã man của bọn thống trị phương Bắc đối với dân ta. Đó cũng là lý do vì sao bà nuôi chí lớn “thay trời hành đạo”, không bó mình nơi phòng khuê mà siêng năng luyện tập võ nghệ, bắn cung, cưỡi ngựa giỏi không kém bất cứ trang nam nhi tuấn kiệt nào. Khi có người đề cập đến chuyện chồng con, cô gái trẻ đã khảng khái bày tỏ nguyện vọng của mình: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ. Há lại khom lưng chịu làm tì thiếp cho người ta”.

 

Năm Mậu Thìn (248), bà Triệu phất cờ khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa từ vùng núi Nưa lan rộng ra khắp quận Cửu Chân rồi quận Giao Chỉ. Đánh đến đâu nghĩa quân thắng như chẻ tre đến đó. Nhà Ngô lo sợ phải điều 8.000 quân do An Nam hiệu uý, Thứ sử Giao Châu Lục Dận (cháu danh tướng Lục Tốn của nhà Đông Ngô) chỉ huy sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đối mặt với khí thế ngút trời của nghĩa quân cùng bà tướng trẻ “mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu” (theo Giao Chỉ chí) uy nghi lẫm liệt, quân Ngô trở nên khiếp sợ, bạc nhược. Chúng phải công nhận một sự thật rằng:

 

Hoành qua đương hổ dị,

 

Đối diện bà Vương nan

 

(Múa giáo chống hổ dễ

 

Đối mặt vua Bà khó)

 

Giặc Ngô khâm phục bà Triệu và gọi bà là Nhuỵ kiều tướng quân (vị nữ tướng yêu kiều), rồi Lệ hải bà vương (vua bà vùng biển mỹ lệ).

 

Theo dân gian kể lại, không có cách nào dập tắt được khởi nghĩa bà Triệu, Lục Dận bày ra kế sách thâm độc, bằng nhiều thủ đoạn hắn mua chuộc, chia rẽ nghĩa quân làm cho lực lượng khởi nghĩa bị phân tán, khối đại đoàn kết bị suy giảm, đồng thời Lục Dận hèn mạt khi trong một lần giáp trận, hắn cho quân Ngô “mình trần như nhộng” bao vây quân bà Triệu. Vị tướng nữ nhi vốn yêu sự trong sạch ghét cái dơ bẩn, bà không chịu được chuyện này đã quay đầu chạy, rút lên núi Tùng thuộc huyện Hậu Lộc rồi quyên sinh, đó là ngày 21 tháng 2 (âm lịch) năm Mậu Thìn (248).

 

Việc lớn không thành như nguyện ước “cưỡi cơn gió mạnh” đánh đuổi quân Ngô “giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ”, nhưng gương liệt nữ của bà Triệu vương vọng mãi ngàn năm, tiêu biểu cho truyền thống bất khuất, kiên trinh của phụ nữ Việt trong nghìn năm Bắc thuộc, được sử gia đời sau ngợi ca: “Triệu Ẩu là người con gái ở quận Cửu Chân, họp quân trong núi, đánh phá thành ấp, các bộ đều theo như bóng theo hình, dễ hơn trở bàn tay. Tuy chưa chiếm giữ được đất Lĩnh Biểu như việc cũ của Trưng Vương, nhưng cũng là bậc hùng tài trong nữ giới”. (Theo Việt giám thông khảo tổng luận).

 

Riêng Bác Hồ trong diễn ca Lịch sử nước ta đã dành cho bà những dòng nhận xét trân trọng:

 

Tài năng dũng cảm hơn người,

 

Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương.

 

Phụ nữ ta chẳng tầm thường,

 

Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời.




Nữ Đô đốc đất Tây Sơn. Bậc anh hùng triều Quang đế

 

Trong bài thơ Phu nhân ca, Tả Am Nguyễn Trọng Trí đã có đôi dòng cảm tưởng về một bậc nữ danh cùng quê:

 

Cổ kim bất phạp chân anh hùng,

 

Năng ngự ngoại hồi vi thượng công.

 

Tráng tai Thị Xuân kì nữ tử,

 

Thống suất tì hưu biến tây đông.

 

Tổ tông cương thổ bất dung vong,

 

Nam nhi tử tất tại sa trường.

 

Nam nhi bất hướng sa trường tử,

 

Cao ca nhất khúc khán Thị Xuân.

 

Tạm dịch:

 

Xưa nay chẳng thiếu các bậc thật sự anh hùng,

 

Có thể ngăn giặc ngoài làm nên công lao.

 

Mạnh thay Thị Xuân, người con gái lạ lùng,

 

Cầm quân vùng vẫy khắp tây đông.

 

Đất đai tổ tông không thể để mất,

 

Nam nhi hẳn nhiên phải chết ở chốn sa trường.

 

Nếu nam nhi mà không dám hướng về sa trường để chết,

 

Hãy hát lớn một khúc ca mà xem gương Thị Xuân.

 

Người phụ nữ ưu tú được nói tới ở đây, không ai khác chính là nữ Đô đốc Bùi Thị Xuân thời anh hùng áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ. Bùi Thị Xuân (? – 1802) chính quê ở thôn Xuân Hào, tổng Phú Phong, huyện Tuy Viễn, phủ Qui Nhơn, nay là thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Bà là nữ tướng danh tiếng thời Tây Sơn, vợ danh tướng Trần Quang Diệu, cháu Thái sư Bùi Đắc Tuyên.

 

Là phận gái thân bồ liễu nhưng ở bà không chỉ hội tụ đủ yếu tố cần thiết của người phụ nữ thời phong kiến với luân lý “tam tòng, tứ đức” mà những phẩm chất trí, dũng, liệt… của trang nam nhi tuấn kiệt cũng hiện diện nơi bà, đưa bà trở thành một trong những nữ danh tướng huyền thoại thời Tây Sơn, thậm chí là cả sử Việt cổ kim.

 

Thuở nhỏ thay vì làm bạn với đường kim, mũi chỉ thêu thùa, với cây đàn tỳ bà thánh thót, cô Xuân đi… học võ với thầy Đô thống Ngô Mạnh ở Thuần Truyền. Trong các môn sinh nam nữ, khả năng võ nghệ của Bùi Thị Xuân nổi bật, học đâu hiểu đó, đặc biệt giỏi môn song kiếm, do đó bà được sư phụ cho làm chức trưởng môn. Theo tương truyền, ngoài giỏi võ, Bùi Thị Xuân còn là người có nhan sắc, khéo tay, biết cả chữ thánh hiền, viết chữ rất đẹp.

 

Nhờ giỏi võ mà tương truyền có lần bà cùng Trần Quang Diệu giết cả hổ dữ tấn công và cũng từ lần tương ngộ đó hai người nên vợ nên chồng, lại đồng chí hướng phò vua giúp nước, hai vợ chồng đầu quân theo khởi nghĩa Tây Sơn. Từ đây tài năng võ nghệ đã đưa Bùi Thị Xuân trở thành một nữ võ tướng tiêu biểu dưới triều vua Quang Trung.

 

Cùng với chồng là tướng quân Trần Quang Diệu và các tướng lĩnh khác, Bùi Thị Xuân tham gia phong trào nông dân Tây Sơn, góp công đánh bại 29 vạn quân xâm lược Thanh năm 1789 (Kỷ Dậu) cùng vua Quang Trung, rồi chiến tranh đối đầu với Nguyễn Ánh. Tài nghệ binh bị, giỏi sử dụng quân, can đảm dũng lược trong chiến đấu, bà góp công lớn cho sự tạo dựng vương triều Tây Sơn, được Quang Trung phong là Đô đốc. Lực lượng tượng binh nhà Tây Sơn sở dĩ hùng mạnh cũng chính bởi tài giỏi luyện voi chiến của vị nữ Đô đốc họ Bùi. Thời ấy Bùi Thị Xuân là một trong “Tây Sơn ngũ phụng thư”, là một thành viên trong hàng “Tứ kiệt” dưới triều Nguyễn Huệ cùng Ngô Văn Sở, Võ Văn Phụng, Trần Quang Diệu. Sống với chồng trọn nghĩa phu thê, phò vua trọn đường tôi trung nên bà được chồng yêu, vua Quang Trung tin cẩn.

 

Năm Nhâm Tý (1792), nhà Tây Sơn dưới sự điều khiển của Quang Trung đang đi lên thì vị vua áo vải cờ đào đột ngột băng hà. Quang Toản lên ngôi tức Cảnh Thịnh tài năng không bằng cha để nhà Tây Sơn dần suy vi. Tháng 1 năm Tân Dậu (1801) tại Quảng Bình, trận đánh nơi chiến lũy Trấn Ninh và Đâu Mâu diễn ra quyết liệt giữa quân đô đốc Bùi Thị Xuân với quân Nguyễn, Bùi Thị Xuân luôn tiên phong hô hào binh sĩ, tự tay đánh trống thúc quân. Thân mình máu đẫm áo bào vẫn hiên ngang diệt giặc. Nhưng vua Cảnh Thịnh nhát gan thấy tương quan lực lượng bất lợi, lại nghe tin Nguyễn Ánh phá được thủy binh Tây Sơn tại cửa biển Nhật Lệ liền cho lui quân. Bùi Thị Xuân phải chạy về Nghệ An. Sau bà cùng chồng và con gái bị địch bắt.

 

Cùng với 200 tướng lĩnh Tây Sơn khác, Đô đốc Bùi Thị Xuân bị xử tội chết tại bãi chém An Hòa, Phú Xuân. Nhưng cái chết của bà thật oanh liệt làm kẻ thù phải khiếp sợ, thán phục, tô điểm cho lòng kiên trinh, tiết tháo son sắt của người phụ nữ trước biến cố sơn hà. Để gây run sợ cho bà, vua Gia Long cho giết chồng bà và con gái: “Mùa đông, tháng 10 (năm Nhâm Tuất – 1802, người dẫn chú), dâng tù binh ở Thái miếu. Tháng ấy, ngày 6, tế Trời, Đất; ngày 7, yết Thái miếu, đem anh em Toản và bọn Diệu, Dũng giết đi, bêu đầu…” (trích Quốc sử di biên). Đến lượt Bùi Thị Xuân cũng bị voi giày, nhưng bà: “không biến đổi sắc mặt, tiến đến trước con voi như chọc tức nó. Mấy võ quan ra lệnh bắt bà quỳ xuống, bà cứ thản nhiên tiến bước. Voi lùi lại. Lính cầm giáo thọc vào đùi voi, con vật đau xông lên giương vòi quắp lấy bà rồi tung lên trời” (theo ký sự Relation sur de Tonkin et la Cochinchine của Giáo sĩ De la Bissachère). Về sau, dù là một nhà sử học của Nguyễn triều, nhưng Đặng Xuân Bảng khi nhìn nhận về vị nữ Đô đốc bên kia chiến tuyến mà triều đại ông phụng sự gọi là ngụy triều, vẫn khách quan nhận xét: “Xuân cũng là bậc hào kiệt trong nữ giới” (trích Việt sử cương mục tiết yếu).

 

Ba bà, chỉ là những đơn cử tiêu biểu cho tài cao, chí cả của phụ nữ đất Việt ta trong lĩnh vực quân sự. Nhưng thiết nghĩ, cũng đã phần nào làm toát lên được cái lẽ “nam nữ bình quyền” cho thời đại hiện nay.
DanQuyen.com
    Phản Hồi Của Độc Giả Về Bài Viết
Họ và Tên
Địa chỉ
Email
Tiêu đề
Nội dung
Gửi cho bạn bè Phản hồi

Các bài viết mới:
    Sự tích về chúa Nguyễn Ánh và núi Bà Đen (18-02-2024)
    Chuyến thám hiểm dãy Trường Sơn của bác sĩ Yersin 133 năm trước (14-02-2024)
    Thêm 29 hiện vật, nhóm hiện vật được công nhận là Bảo vật Quốc gia (18-01-2024)
    Tặng thưởng Huân chương Dũng cảm cho 'thủ lĩnh' nhóm cứu hộ FAS Angel (26-12-2023)
    Bolero trở thành Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại (06-12-2023)
    Bảo tồn nghề truyền thống của người Tày gắn với phát triển du lịch cộng đồng (27-11-2023)
    Dòng chảy văn hóa Việt trong thiết kế nội thất (21-10-2023)
    Hội thảo đẩy mạnh sự phát triển võ cổ truyền Việt Nam (03-08-2023)
    Phát hiện khẩu súng thần công dài gần 2 m thời triều Nguyễn (16-07-2023)
    Di sản Thế giới đầu tiên tại Việt Nam được UNESCO vinh danh, giờ ra sao? (17-06-2023)
    Hành trình 30 năm Di sản văn hóa Huế hội nhập thế giới (15-06-2023)
    Khai mạc hội Gióng - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (26-05-2023)
    Thành kính lễ Giỗ Tổ Hùng Vương tại Liên bang Nga (29-04-2023)
    Festival nghề truyền thống Huế 2023: Tôn vinh tinh hoa nghề bún (29-04-2023)
    Sắc phong Việt Nam bị rao bán tại Trung Quốc: Các bên tiếp tục phối hợp xử lý (20-04-2023)
    Mở lối cho việc trùng tu biệt thự Pháp cổ xuống cấp tại Hà Nội (15-04-2023)
    Ông Mai Hữu Tín tiếp tục được bầu Chủ tịch Vovinam Việt Nam (15-04-2023)
    Sắc phong của Việt Nam có thể bị rao bán ở Trung Quốc, Bộ VHTT&DL lên tiếng (12-04-2023)
    UNESCO 'hiến kế' cho Hà Nội bảo tồn và phát huy giá trị di sản (27-03-2023)
    Vị Công tôn nữ cuối cùng làm gối tựa cung đình Huế qua đời (25-03-2023)

Các bài viết cũ:
    Ba người phụ nữ 'đổi thân xác lấy đại cục' của nhà Trần (20-10-2015)
    Những lần đem quân tấn công đất Trung Hoa của quân đội Đại Việt (16-10-2015)
    7 lần giải phóng Thủ đô trong lịch sử Việt Nam (11-10-2015)
    Cuộc xung đột Đại Việt - Champa trong tiến trình lịch sử Việt Nam (08-10-2015)
    Tìm hiểu sức mạnh chiến thuyền của thủy quân Việt xưa (05-10-2015)
    Một góc nhìn về văn minh Trung Hoa và văn miếu Việt Nam (27-09-2015)
    Những câu chuyện li kỳ về loài thuồng luồng trong sử Việt (23-09-2015)
    Ẩn số về nguồn gốc người Nùng (21-09-2015)
    Người đẹp khiến cơ đồ nhà Trịnh sụp đổ, Thăng Long khói lửa binh đao (15-09-2015)
    Chuyện viên tướng người Hoa mở đất Hà Tiên - Phú Quốc cho nhà Nguyễn (13-09-2015)
    12 vị vua chúa giỏi quân sự trong lịch sử Việt Nam (07-09-2015)
    Những vụ xét án lạ lùng trong cổ sử Việt (05-09-2015)
    Một số giai thoại về chuyện vi hành của vua chúa Việt (01-09-2015)
    Sự phát triển của các loại chiến thuyền trong lịch sử Việt Nam (29-08-2015)
    Chuyện giờ mới kể về cựu hoàng Bảo Đại và Monique Baudot - người vợ cuối cùng (26-08-2015)
    Những giai thoại ít biết về Thái sư Trần Thủ Độ (22-08-2015)
    Những nghi án cung đình không lời giải trong lịch sử Việt Nam (18-08-2015)
    Kế hiểm giúp Nguyễn Ánh chiếm thành Sài Gòn không tốn một mũi tên (13-08-2015)
    Những cái chết không toàn thây của vua chúa Việt (09-08-2015)
    Ai là ông Tổ của tiền giấy Việt Nam? (02-08-2015)
 
"Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam".

Chuyển Tiếng Việt


    Truyện Ngắn
Xa Xóm Mũi


   Sự Kiện

Lời Di Chúc của Vua Trần Nhân Tôn





 

Copyright © 2010 DanQuyen.com - Cơ Quan Ngôn Luận Người Việt Hải Ngoại
Địa Chỉ Liên Lạc Thư Tín:
E-mail: danquyennews@aol.com
Lượt Truy Cập : 152861367.